Gọi điện thoại
0989326799

HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ HOÀN 10 VIÊN

Tình trạng:Còn hàng
120,000

Bài thuốc Huyết Phủ Trục Ứ Thang có xuất xứ trong tác phẩm “Y lâm cải thác” của Danh y Vương Thanh Nhậm. Hiện nay, Huyết Phủ Trục Ứ Thang được ứng dụng nhiều để chữa các chứng đau tức ngực do thiếu máu cơ tim, xơ cứng động mạch vành, co thắt động mạch vành, đau tức ngực do huyết ứ, hành kinh đau bụng hoặc các chứng bệnh hậu sản có triệu chứng huyết ứ, khí trệ sau sinh, v.v.

1. Thành phần:

– Đào nhân: 8 – 16g
– Hồng hoa: 6 – 12g
– Xích thược: 8 – 12g
– Xuyên khung: 6 – 8g
– Xuyên Ngưu tất: 6 – 12g
– Sinh Địa hoàng: 12 – 16g
– Đương quy: 12 – 16g
– Cát cánh: 6 – 8g
– Chỉ xác: 6 – 8g
– Sài hồ: 8 – 12g
– Cam thảo: 4g

2. Cách dùng

ngày 4 viên chia 2 lần

3. Công dụng

Hoạt huyết hoá ứ, hành khí chi thống.

4. Chủ trị

Trị chứng đau tức ngực do huyết ứ, khí trệ, bế kinh, hành kinh đau bụng(thống kinh), đầu đau, ngực đau lâu ngày không khỏi, hoặc nấc lâu ngày không khỏi, hoặc nội nhiệt phiền muộn, hoảng hốt, mất ngủ, ban ngày dễ chịu, về chiều thì sốt. Ngực đau, đầu đau, đau có chỗ nhất định, chất lưỡi màu đỏ tối hoặc lưỡi có nốt ứ huyết, mạch Sáp hoặc Huyền Khẩn. 

5. Giải thích bài thuốc:

Trong ngực là nơi xuất của tông khí, tất cả huyết tụ lại ở đấy là khu vực mà can kinh tuần hành. Huyết ứ trong vùng ngực, khí cơ bị trở trệ, thanh dương không thăng lên nên đây đau ngực, đau đầu lâu ngày không khỏi, đau như kim châm, điểm đau cố định.
Trong ngực có huyết ứ, ứ nhiệt nhiễu cách, gây ra chứng nấc, nôn khan, có khi uống nước còn sặc. Huyết phận ứ nhiệt ắt nhiệt bên trong làm cho tinh thần bất định , chiều tốt sốt tăng dần. Ứ nhiệt nhiễu tâm, làm tim đập nhanh, đập loạn nhịp, mất ngủ, mơ nhiều. Uất trệ lâu ngày, can mất đi sự điều đạt nên tính tình hấp tấp, dễ nổi nóng. Cũng dẫn đến môi, mắt, lưỡi, mạch có biểu hiện của chứng huyết ứ.

Pháp trị dùng hoạt huyết hoá ứ, hành khí chỉ thống. Trong phương:
– Đào nhân phá huyết hành trệ mà nhuận táo, Hồng hoa hoạt huyết, khư ứ, chỉ thống, hai vị cùng làm Quân dược.
– Xích thược, Xuyên khung hoạt huyết khử ứ, Ngưu tất khử ứ huyết, thông huyết mạch, còn có khả năng dẫn huyết đi xuống dưới.
– Sinh địa, Đương quy ích âm dưỡng huyết, thanh nhiệt hoạt huyết, làm ứ khử mà huyết mới được sinh ra
– Cát cánh, Chỉ xác một thăng một giáng, hành khí khoan hung
– Sài hồ sơ can giải uất, cùng hợp với Cát cánh-Chỉ xác có thể lý khí hành trệ, làm khí hành ắt huyết thông sướng
– Cam thảo điều hoà các vị thuốc.

Phối ngũ phương thuốc Huyết phủ trục ứ thang có 3 đặc điểm:
– Hoạt huyết phối hợp với hành khí, vừa hành huyết bị ứ trệ lại vừa giải được khí phận bị uất kết.
– Khử ứ và dưỡng huyết cùng phối hợp, có thể hoạt huyết mà không lo huyết tổn hại, thương âm, ứ đi mới có thể sinh mới
– Thăng giáng kiêm giữ, có thể thăng đạt thanh dương, lại tả giáng tiết hạ.

6. Ứng dụng lâm sàng:
Bài thuốc được dùng nhiều trên lâm sàng để trị các bệnh tim mạch như đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim, xơ cứng động mạch vành, co thắt động mạch vành, bệnh thần kinh, đau tức ngực do huyết ứ, hành kinh đau bụng hoặc các chứng bệnh hậu sản có triệu chứng huyết ứ, khí trệ sau sinh, v.v.

* Số liệu thực tế trong hiệu quả điều trị:
• Trị tắc mạch máu não: Dùng bài này chế thành thuốc chích tĩnh mạch, trị 25 ca. Khỏi 6, đỡ 7, đỡ ít 8, không khỏi hoặc nặng hơn 4 (Trung Quốc y viện dược học tạp chí 3, 1983).

• Trị chấn thương sọ não: Trị những ca bệnh nặng, 15 ngày đầu thì tỉnh, 40 ngày thì tự đi lại được, di chứng để lại rất ít (Thiết thứ y học 2, 1984).

• Trị di chứng chấn thương sọ não: Đã trị 38 ca. Khỏi 33, đỡ 2, đỡ ít 2 , không khỏi 1 (Liêu Ninh trung y tạp chí 2, 1987).

• Trị đau đầu: Trị 55 ca đau đầu do ứ huyết. Khỏi 38, chuyển biến 15, không khỏi 2 (Thiểm Tây trung y 2, 1983).

• Trị 100 ca trẻ nhỏ đau đầu: Trong đó loại thần kinh 82, do mạch máu co thắt 15 rối loạn thần kinh 2, động kinh 1. Uống 4-20 thang. Kết quả: Khỏi 76, đỡ 20, không khỏi 4 (Chiết Giang trung y tạp chí 9, 1983).

• Trị mất ngủ: Trị 46 ca, trong đó, loại khí trệ huyết ứ 29 ca (chỉ dùng bài thuốc này), đờm ngưng huyết kết 13 ca (kết hợp với bài ‘Đạo đờm thang’, loại khí hư huyết ứ 4 ca (dùng chung với bài ‘Bổ dương hoàn ngũ thang’). Kết quả: Khỏi 22, đỡ 13, có chuyển biến 11 (Hồ Bắc trung y tạp chí 2, 1986).

• Trị hay mơ: Dùng bài này thêm Ưất kim, Hương phụ. Kết quả: Sau khi uống 5 thang đều hết các triệu chứng, sau đó, cho uống thêm ‘Tiêu dao hoàn’. Theo dõi 4 năm sau không thấy tái phát (Tứ Xuyên trung y 1, 1989).

• Trị tim đập nhanh: Dùng bài này thêm Quế chi, Đảng sâm, Cam thảo, Sài hồ. Kết quả: Sau khi uống 9 thang, nhịp tim còn 70- 80/phút (Tứ Xuyên trung y 7, 1987).

• Trị hen Phế quản: Dùng bài này thêm Địa long, trị 10 ca. Hết lên cơn 7, có chuyển biến 2, không khỏi 1. Uống ít nhất 10 thang, nhiều nhất 30 thang (Thượng Hải trung y tạp chí 9, 1984).

7. Gia giảm và biến pháp:

– Khi cơ uất trệ nặng gia Xuyên luyện tử, Hương phụ, Thanh bì để sơ can lý khí, chỉ thống.
– Hạ sườn phải đau có khối u gia Uất kim, Đơn sâm, Thuỷ Điệt để hoạt huyết tiêu tích.
– Ứ đau, nhập vào lạc gia thêm Toàn yết, Xuyên sơn giáp, Địa long, Tam lăng, Nga truật để phá huyết thông lạc, chỉ thống.
– Huyết ứ, kinh bế, thống kinh có thể bỏ Cát cánh, gia Hương phụ, Ích mẫu thảo, Trạch lan để hoạt huyết, điều kinh, chỉ thống
– Mất ngủ gia Thục Táo nhân
– Suy nhược khí hư gia Đảng sâm để bổ trung ích khí.
– Dương hư bỏ Sài hồ gia Thục phụ tử, Quế chi để ôn tâm dương.

8. Tham khảo
Trung y vấn đối:
Phương pháp lập bài ‘Huyết phủ trục ứ thang’ là dựa vào trạng thái thịnh hư của tà khí và chính khí, căn cứ vào sự thăng giáng khí cơ của tạng phủ, kinh lạc và sự sinh hóa của khí huyết để tạo thành bài thuốc. Đặc điểm cấu tạo bài thuốc có mấy ý nghĩa sau:
– Trị cả khí lẫn huyết: Dựa vào nguyên lý ‘khí là thống soái của huyết, khí hành thì huyết hành’ cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa khí và huyết; đồng thời dựa theo chức năng và tính chất Can là thích thông đạt, bài thuốc sử dụng thuốc hoạt huyết hóa ứ làm chủ dược, phối hợp thuốc hành khí như Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh đạt mục đích ‘Khí hành thì huyết hành, huyết hành thì hết ứ trệ’.
– Trừ tà khí không tổn thương chính khí: Chứng huyết ứ, âm huyết tổn thương, thuốc hành khí hoạt huyết dễ làm tổn thương âm huyết, do đó trong bài thuốc, dùng ‘Tứ vật thang’ dưỡng huyết, bồi dưỡng chính khí, thêm các vị thuốc hoạt huyết hành khí, để trừ tà khí mà không làm tổn thương chính khí.
– Phương pháp vừa thăng vừa giáng: Trong bài thuốc dùng Cát cánh làm mái chèo thuyền, đưa thuốc vào vùng ngực để tán máu ứ, dùng Ngưu tất dẫn máu ứ đi xuống. Hai vị phối hợp một thăng một giáng, thông lợi khí cơ, điều đạt khí huyết, trừ tà khí, lập lại cân bằng âm dương.  

 

5 Sao ( 0 )
4 Sao ( 0 )
3 Sao ( 0 )
2 Sao ( 0 )
1 Sao ( 0 )
    Chưa có đánh giá nào! Hãy là người đầu tiên đánh giá cho sản phẩm này.